Ngày 20/10/1890, toàn quyền Đông Dương Richaud ra Nghị định thành lập tỉnh Hà Nam, xác lập một danh xưng mới trên bản đồ Bắc Kỳ. Nhưng lịch sử của vùng đất này đã khởi nguồn từ lâu đời.
Lịch sử
Hà Nam là tỉnh người Việt cổ xuất hiện sớm nhất trong vùng hạ lưu châu thổ sông Hồng. Những di chỉ khảo cổ học đã được phát hiện ở hang Chuông, thôn Thanh Bồng, hang Gióng Lở (Thanh Nghị, Thanh Liêm) đã tìm thấy công cụ chặt thô hình mai rùa, một số mảnh tước và hạch đá, cuốc đá, chày nghiền, bàn nghiền, dấu vết bếp lửa… Tại hang Đội 4 (Ba Sao, Kim Bảng) khai quật khảo cổ học đã làm phát lộ 3 mộ táng với di cốt của người tối cổ, cùng nhiều hiện vật đá trong tầng văn hóa. Các nhà khảo cổ học đã khẳng định các di chỉ, mộ táng được phát hiện ở Thanh Liêm, Kim Bảng thuộc “văn hóa Hòa Bình” hậu kỳ thời đại đồ đá mới, cách ngày nay trên một vạn năm.
Trong chế độ phong kiến, Hà Nam là vùng đất phên giậu của kinh đô Hoa Lư, nước Đại Cồ Việt, qua 3 triều đại Đinh, Tiền Lê, đầu Triều Lý. Hà Nam thời hậu Lê nằm trong tứ trấn bao quanh kinh đô Thăng Long, nước Đại Việt, thế kỷ XVII. Lỵ sở trấn Sơn Nam đặt hai bên bờ sông Hồng: Phố Hiến (thành phố Hưng Yên) bên bờ tả, Trác Văn (thị xã Duy Tiên) bên bờ hữu, cụ thể là nơi đóng trụ sở của Thừa Chính sứ (Thừa ty). Dải đất ven sông nối liền 3 xã của Duy Tiên rất quan trọng với lỵ sở trấn Sơn Nam (trấn lỵ). Thôn Tường Lân (Trác Văn) đặt trụ sở Thừa ty. Làng Quan Phố (Chuyên Ngoại) quan chức của trấn cư trú lập thành phố. Bến Lảnh Trì (Mộc Nam) tấp nập thuyền buôn trong nước và nước ngoài mua bán, làng Nha Xá (Mộc Nam) dệt lụa, cung cấp lụa sánh ngang lụa Vạn Phúc (Hà Đông), cung cấp cho lỵ sở trấn Sơn Nam và cả nước. Thám hoa Nguyễn Quốc Hiệu, quê thôn Phú Thứ (Tiên Hiệp, Duy Tiên) đứng đầu hiến ty, một trong ba cơ quan của trấn. Năm 1741, triều đình chia trấn Sơn Nam thành hai lộ, Sơn Nam Thượng, Sơn Nam Hạ, đến thời Tây Sơn đổi thành trấn. Lãnh thổ trấn Sơn Nam Thượng rộng lớn (toàn bộ tỉnh Hà Nam, Hà Đông, một phần của tỉnh Hưng Yên, Hòa Bình, Nam Định). Lỵ sở của trấn nằm trên đất xã Châu Cầu, liền kề sông Châu, sông Đáy (hai con sông quan trọng của Hà Nam).
Núi Đọi, sông Châu.
Như vậy, đủ thấy vùng đất Hà Nam hiện nay có vị thế nổi trội, in dấu son sâu đậm đối với trấn Sơn Nam, trấn Sơn Nam Thượng, lan tỏa trong cả nước về lịch sử, kinh tế - xã hội và văn hóa.
Sự kiện và nhân vật
Hà Nam có bề dày lịch sử, in đậm truyền thống hào hùng dựng nước và giữ nước. Có những sự kiện lịch sử diễn ra trên đất Hà Nam, ảnh hưởng, tác động, gây tiếng vang rộng lớn.
Mùa Xuân tháng 2 năm Canh Tý (tháng 3 năm 40 sau công nguyên), cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng bùng nổ ở đất Mê Linh, lập tức có sự hưởng ứng của nhân dân các quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố. Hà Nam lúc đó thuộc quận Giao Chỉ đã có hàng trăm thủ lĩnh phụ nữ, nam giới đứng lên kêu gọi dân chúng lập các đội quân, đánh quân đô hộ Đông Hán tại địa phương và kéo về Mê Linh hợp với quân Hai Bà Trưng tấn công thành Luy Lâu nơi đặt cơ quan đô hộ trung ương của Thái thú Tô Định. Nổi bật là các nữ thủ lĩnh Nguyệt Nga (Tiên Phong, Duy Tiên), Cao Thị Liên ở làng Thạch Tổ (Thanh Hà, Thanh Liêm), Quỳnh Chân ở Tái Kênh (Đinh Xá, thành phố Phủ Lý), Lê Thị Chân (Lý Nhân).
Đặc biệt, tại vùng núi Lạt Sơn (Thanh Sơn, Kim Bảng), Nữ tướng Lê Chân đã xây dựng căn cứ hiểm yếu, chặn quân Tô Định tiến về quận Cửu Chân. Nhiều trận đánh ác liệt diễn ra cuối cùng bất lợi về so sánh lực lượng, Nữ tướng từ trên đỉnh núi Giáp Dâu đã gieo mình tự vẫn để bảo toàn khí tiết. Tại vùng căn cứ còn lưu nhiều dấu tích địa danh về sự kiện thu hút nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài tỉnh. Đền Lê Chân thờ bà thu hút rất đông du khách, nhất là người Hải Phòng (quê hương Nữ tướng Lê Chân). Lễ hội đền bà Lê Chân là lễ hội vùng, gây được tiếng vang trong cả nước.
Sự kiện Lý Thái Tổ dời đô là một dấu son trong lịch sử Việt Nam. Ngày mùng 2 tháng 11 năm Kỷ Dậu, tức ngày 21 tháng 3 năm 1009, Lý Công Uẩn lên ngôi (Lý Thái Tổ). Tháng 7 âm lịch năm sau (1010), nhà vua ban “Chiếu dời đô”.
Đoàn thuyền dời đô khởi hành từ sông Sào Khê ra sông Hoàng Long trên đất Ninh Bình, vào sông Đáy, địa phận huyện Thanh Liêm, tiếp theo vào sông Châu (thành phố Phủ Lý, thị xã Duy Tiên) rồi lên sông Nhuệ, sông Tô Lịch (Hà Nội). Khi đi qua Hà Nam, đoàn thuyền của nhà vua, triều đình, binh sĩ được nhân dân Hà Nam khi ấy chào mừng nồng nhiệt, tiếp tế đồ ăn, thức uống. Truyền thuyết còn lưu lại những câu chuyện cảm động của dân Hà Nam trong sự kiện dời đô.
Cũng trong thời Lý, dòng sông Đáy, sông Châu chảy trên đất Hà Nam in dấu sự kiện các lần triều đình cử tướng sĩ đi tiễu phạt ở phương Nam. Năm 1069, Thái úy Lý Thường Kiệt được nhà vua cử chỉ huy đạo quân thủy đi tiễu phạt Chiêm Thành, xâm phạm bờ cõi. Đoàn thủy quân qua sông Đáy, sông Châu trên đất Hà Nam, được dân chúng ủng hộ lương thực, thực phẩm, ca khúc khải hoàn trở về, đoàn thuyền quân của Thái úy Lý Thường Kiệt dừng nghỉ dưới chân núi Cấm trên sông Đáy, cùng nhân dân mở hội mừng chiến thắng, múa hát dặm ra đời trong dịp này. Liên quan đến sự kiện này, ba địa phương ven bờ sông Đáy đã lập công trình thờ phụng Lý Thường Kiệt: Đền Trúc (Quyển Sơn, Thi Sơn, Kim Bảng), đình Thịnh Châu Hạ (Châu Sơn, thành phố Phủ Lý), đình An Xá (Thanh Tuyền, Thanh Liêm).
Mùa Xuân năm Kỷ Dậu (1789), hoàng đế Quang Trung (Nguyễn Huệ) cất đại quân để đại phá quân Thanh xâm lược ở kinh đô Thăng Long cũ (trung tâm Bắc Thành). Nhân dân Hà Nam đóng góp tích cực về nhân lực, vật lực cho đạo quân chủ lực do chính Hoàng đế Quang Trung chỉ huy. Các trận đánh quân Thanh ở Đoan Vĩ (Thanh Hải), Hoàng Đan (Liêm Phong), huyện Thanh Liêm; Nhật Tảo (Duy Tiên) diễn ra nhanh gọn, tạo điều kiện thuận lợi cho đại quân thẳng tiến. Một số làng ở Bình Lục, Thanh Liêm, Duy Tiên, thành phố Phủ Lý còn lưu giữ địa danh, phong tục, truyền thuyết về đại quân, về con em gia nhập đi đánh giặc, về tục ăn Tết lại…
Lịch sử Hà Nam lại được tô đậm, từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng bộ tỉnh ra đời. Ngày 20/10/1930, tại đình Triều Hội, phiên chợ Bỉnh Trung (Bồ Đề, Bình Lục), Tỉnh ủy tổ chức cuộc biểu tình tuần hành thị uy rầm rộ của nông dân Hà Nam, để ủng hộ xô viết Nghệ - Tĩnh và phong trào nông dân Tiền Hải (Thái Bình). Sự kiện này gây tiếng vang rộng khắp, góp phần thúc đẩy phong trào cách mạng trong tỉnh và nhiều tỉnh khác.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng, quân đội ta mở chiến dịch Quang Trung từ 28/5 – 20/6/1951, trên địa bàn 3 tỉnh Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình nhằm tiêu diệt một bộ phận sinh lực quan trọng của địch, làm tan rã ngụy quân, ngụy quyền, đẩy mạnh chiến tranh nhân dân. Cùng với bộ đội chủ lực và hai tỉnh Nam Định, Ninh Bình, quân dân Hà Nam đánh nhiều trận, tấn công mạnh tuyến phòng thủ sông Đáy của địch, góp phần quan trọng vào thắng lợi chiến dịch.
Vụ đông xuân năm 1958, Hà Nam cũng như mấy tỉnh thuộc khu III cũ bị hạn nặng. Thực tế nóng bỏng về hạn hán ở khu vực đồng bằng Bắc Bộ khiến Bác Hồ không yên tâm.
Ngày 14/1/1958, Chủ tịch Hồ Chí Minh về dự hội nghị sơ kết chống hạn của tỉnh Hà Nam. Sau đó, Bác Hồ đến thăm công trường đắp đập Cát Tường thuộc xã An Hòa (nay là xã An Mỹ, Bình Lục) đang thi công để lấy nước sông Sắt cứu hàng ngàn mẫu lúa chiêm của huyện Bình Lục, Vụ Bản (Nam Định) đang bị khô hạn. Bác đến từng nơi làm việc động viên. Trước đông đảo cán bộ, nhân dân, Bác khen ngợi tinh thần cố gắng, khuyến khích mọi người. Cả công trường bừng lên không khí sôi nổi. Con đập hoàn thành vượt tiến độ đề ra. Sự kiện Bác đến thăm cán bộ, nhân dân Hà Nam đắp đập Cát Tường lan tỏa, thúc đẩy các địa phương khác tích cực chống hạn, cứu lúa.
Vùng đất địa linh, nhân kiệt
Lê Hoàn khởi nghiệp nhà Tiền Lê, quê nội xã Liêm Cần (Thanh Liêm). Nhà vua sinh năm 941. Ông đã chiêu tập nghĩa sĩ, lập căn cứ luyện quân ở khu vực núi Cõi (xã Bảo Thái xưa) rồi đem quân giúp Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân. Nối nghiệp nhà Đinh năm 980 Lê Hoàn lên ngôi hoàng đế, nhà vua đẩy mạnh phát triển đất nước về mọi mặt. Đặc biệt, ông đã chỉ huy đánh tan quân xâm lược Tống, bằng chiến thuật cắm cọc trên sông Bạch Đằng, năm 981 (chiến thắng Bạch Đằng lần thứ 2).
Hậu duệ của Hoàng đế Lê Đại Hành (Lê Hoàn) là Trần Bình Trọng, do lập nhiều công lao, nên được vua Trần ban quốc tính, đổi cả họ tên. Ngày 21 tháng Giêng năm Ất Dậu (1285), tướng Trần Bình Trọng chỉ huy cánh quân chặn đánh quân Nguyên – Mông trên sông Thiên Mạc (Duy Tiên) để bảo vệ hành cung Thiên Trường (Nam Định) nơi triều đình đã rút về. Sa vào tay giặc, không chịu đầu hàng, ông thét lớn: “Ta làm quỷ nước Nam, chứ không thèm làm vương đất Bắc” rồi bị giặt sát hại. Câu nói bất hủ của dũng tướng Trần Bình Trọng lưu vào sử sách muôn đời.
Trong chế độ phong kiến Việt Nam, Lê Tung quê Liêm Thuận (Thanh Liêm) được xem là nhà viết sử. Tác phẩm nổi bật của ông là “Việt giám thông khảo tổng luận”, tóm lược lịch sử Việt Nam, với lời bình sắc sảo.
Trong nền khoa cử Hán học dưới chế độ phong kiến, Hà Nam có 94 người đỗ Đại khoa (Tiến sĩ) ngạch văn khoa, cao nhất là Thám hoa Nguyễn Quốc Hiệu (Phú Thứ, Tiên Hiệp, thành phố Phủ Lý).
Trong lịch sử cận đại Việt Nam, Đinh Công Tráng nổi lên với vai trò thủ lĩnh nghĩa quân chống Pháp. Ông sinh năm 1842 mất năm 1887, quê thôn Nham Tràng (Thanh Tân, Thanh Liêm). Tháng 4/1885, Đinh Công Tráng chủ trì xây dựng căn cứ Ba Đình gồm ba làng: Mậu Thịnh, Mỹ Khê, Thượng Thọ (Nga Sơn, Thanh Hóa). Ông là thủ lĩnh cùng Phạm Bành (phó thủ lĩnh) đánh bại ba cuộc tấn công lớn của quân Pháp. Tên căn cứ của thủ lĩnh nghĩa quân Đinh Công Tráng xuất hiện giữa lòng thủ đô Hà Nội: Quảng trường Ba Đình, hội trường Ba Đình (trụ sở Quốc hội).
Trong lịch sử đấu tranh cách mạng, kháng chiến chống Pháp, Hà Nam có những người nổi tiếng được cả nước biết tới, được lưu trong các công trình lịch sử địa phương và quốc gia.
Nguyễn Hữu Tiến (1901 – 1941) quê thôn Lũng Xuyên (Yên Bắc, Duy Tiên). Ông đã từng được Đảng phân công phụ trách liên tỉnh ủy miền Tây Nam Bộ (1935); tham gia lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ. Nhiều ý kiến khẳng định ông là tác giả lá cờ đỏ sao vàng. Ngày 26/8/1941, thực dân Pháp đã xử bắn ông cùng một số người cộng sản Việt Nam tại Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh.